Xuất khẩu cà phê: Bao giờ ở thế chủ động?

Mặc dù là nước đứng thứ hai thế giới về sản lượng nhưng xuất khẩu cà phê của Việt Nam chưa bao giờ ở thế chủ động. Nóng – lạnh bất thường của thị trường cà phê thế giới, trong đó có sự thao túng của giới đầu cơ luôn gây nên những hệ lụy nặng nề mà người trồng cà phê là đối tượng bị thiệt hại nặng nhất.

Để giải quyết vấn đề này, ngành cà phê cần nhìn lại tất cả các khâu.

Xuất khẩu cà phê: Bao giờ ở thế chủ động?
Xuất khẩu cà phê: Bao giờ ở thế chủ động?

Luôn phấp phỏng…

Theo dự báo mới nhất của Tổ chức Cà phê quốc tế (ICO), sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2010-2011 sẽ đạt mức 133-135 triệu bao; tiêu dùng cà phê năm nay sẽ phục hồi nhưng cũng chỉ ở mức 129 triệu bao. So với mức sụt giảm hồi đầu năm, hiện giá cà phê đang ở mức cao nhưng nhiều dự báo cho rằng đây chỉ là sự tăng giá do hạn chế nguồn cung trong ngắn hạn, bởi hiện mới chỉ có Braxin đang thu hoạch cà phê.

Vào tháng 11-12, khi Colombia và các nước Trung Mỹ đưa hàng ra thị trường, Việt Nam cũng bước vào vụ thu hoạch thì giá cà phê sẽ rất khó lường. Sau niên vụ 2009-2010, giá cà phê liên tục nhảy múa, người trồng cà phê lại phấp phỏng với mùa cà phê sắp tới.

8 tháng đầu năm 2010 nước ta xuất khẩu 840.000 tấn cà phê, kim ngạch đạt 1,2 tỉ USD, so với cùng kỳ năm 2009, xuất khẩu cà phê giảm cả về lượng lẫnõ giá trị kim ngạch. Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, sản lượng cà phê xuất khẩu năm 2010 có thể đạt 1,1 triệu tấn, kim ngạch 1,67 tỉ USD (năm 2009 là 1,18 triệu tấn và 1,73 tỉ USD).

Theo ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, hàng năm, nước ta xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn cà phê (chủ yếu là Robusta) tới 80 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 10 nước là bạn hàng lớn. Tuy sản lượng xuất khẩu lớn nhưng hầu hết đều phải qua “cửa” của 26 đầu mối và doanh nghiệp nước ngoài chứ chưa tiếp cận được trực tiếp với các nhà rang xay cà phê thế giới. Trong khi đó, ở trong nước có đến 126 doanh nghiệp xuất khẩu cùng hơn 3.000 đại lý thu mua. Đây thực sự là một nghịch lý khiến các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam luôn bị động.

Ông Tự cũng cho biết, phần lớn doanh thu (80 tỷ USD/năm) của ngành cà phê toàn cầu đều rơi vào tay các nhà chế biến, rang xay thế giới. Trong khi các nước sản xuất cà phê (trong đó có Việt Nam) chỉ được hưởng một phần rất nhỏ, chừng 11-13 tỉ USD.

[ Tiêu thụ nội địa của cà phê Việt Nam còn quá ít ]

Phụ thuộc quá nhiều vào thị trường xuất khẩu

Ông Nguyễn Văn An, Tổng giám đốc Tập đoàn Thái Hòa phân tích: “Mỗi năm Braxin sản xuất 2,5 triệu tấn cà phê, trong đó 50% dùng chế biến cà phê hòa tan trong nước. Một phần sản lượng cà phê hòa tan này được xuất khẩu. Với hơn 100 triệu dân, bình quân mỗi người dân tiêu dùng 4-5kg cà phê thì lượng tiêu thụ trong nước của Braxin đã khoảng 450.000 tấn nên họ không bị ảnh hưởng bởi giá quốc tế. Còn ở nước ta, hiện mới chế biến được khoảng 10.000 tấn (bằng 5% tổng sản lượng) nên chẳng thấm tháp vào đâu so với 1 triệu tấn cà phê sản xuất mỗi năm. Thêm vào đó, tiêu dùng nội địa cũng rất thấp, chưa được 0,5kg/người/năm, vì thế ngành cà phê nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường xuất khẩu”.

Theo các chuyên gia, để giải quyết vấn đề trên, ngành cà phê Việt Nam cần nhìn nhận lại tất cả các khâu, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Ông Lê Xuân, Cục trưởng Cục Chế biến, thương mại nông, lâm, thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, ngành cà phê nước ta hiện chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chuyên nghiệp, dẫn đến việc xuất khẩu hoàn toàn bị động.

Về sản xuất, theo định hướng phát triển cà phê được Bộ Nông nghiệp và PTNT đưa ra từ năm 2006, diện tích cà phê ổn định ở mức 450.000-500.000ha, tuy nhiên cà phê vẫn phát triển nóng, diện tích vượt quy hoạch hàng chục nghìn hecta, cà phê vối chiếm tới 93%, cà phê chè rất ít, trong khi cà phê chè mới là loại có chất lượng, giá trị kinh tế cao.

Về chế biến, với thực trạng 90% sản lượng cà phê xuất khẩu dưới dạng thô nên hầu hết các doanh nghiệp đều áp dụng tiêu chuẩn cũ trong thu mua, chế biến, thậm chí mua, bán xô mà không theo một tiêu chuẩn nào. Tỉ lệ doanh nghiệp áp dụng TCVN 4193.2005 trong mua bán chiếm chưa đến 1%. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự nguyện nên nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà phê theo 3 tiêu chí: % thủy phần, đen vỡ, tạp chất. Cung cách “không giống ai” đó khiến cà phê xuất khẩu Việt Nam luôn thăng trầm.

Thêm vào đó, mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người trồng cà phê còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán ngay trên sân nhà.

Để giải quyết thực trạng này, Bộ Nông nghiệp và PTNT kiến nghị Chính phủ cho phép xây dựng chương trình phát triển cà phê bền vững đến năm 2020; xem xét thành lập Ban điều phối quốc gia ngành hàng cà phê; thí điểm thành lập quỹ hỗ trợ rủi ro; thực hiện cơ chế hỗ trợ mua tạm trữ cà phê chủ động; xem xét đưa cà phê vào mặt hàng cần can thiệp về giá thu mua để đảm bảo người sản xuất có mức lợi nhuận tối thiểu cần thiết khi gặp rủi ro thị trường.

Có thể bạn quan tâm:

Theo các chuyên gia, để giải quyết vấn đề trên, ngành cà phê Việt Nam cần nhìn nhận lại tất cả các khâu, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ. Ông Lê Xuân, Cục trưởng Cục Chế biến, thương mại nông, lâm, thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, ngành cà phê nước ta hiện chưa thiết lập được hệ thống chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu chuyên nghiệp, dẫn đến việc xuất khẩu hoàn toàn bị động.

Về sản xuất, theo định hướng phát triển cà phê được Bộ Nông nghiệp và PTNT đưa ra từ năm 2006, diện tích cà phê ổn định ở mức 450.000-500.000ha, tuy nhiên cà phê vẫn phát triển nóng, diện tích vượt quy hoạch hàng chục nghìn hecta, cà phê vối chiếm tới 93%, cà phê chè rất ít, trong khi cà phê chè mới là loại có chất lượng, giá trị kinh tế cao.

Về chế biến, với thực trạng 90% sản lượng cà phê xuất khẩu dưới dạng thô nên hầu hết các doanh nghiệp đều áp dụng tiêu chuẩn cũ trong thu mua, chế biến, thậm chí mua, bán xô mà không theo một tiêu chuẩn nào. Tỉ lệ doanh nghiệp áp dụng TCVN 4193.2005 trong mua bán chiếm chưa đến 1%. Do việc áp dụng tiêu chuẩn là tự nguyện nên nhiều doanh nghiệp vẫn duy trì phân hạng cà phê theo 3 tiêu chí: % thủy phần, đen vỡ, tạp chất. Cung cách “không giống ai” đó khiến cà phê xuất khẩu Việt Nam luôn thăng trầm. Thêm vào đó, mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu với người trồng cà phê còn lỏng lẻo, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán ngay trên sân nhà.

Để giải quyết thực trạng này, Bộ Nông nghiệp và PTNT kiến nghị Chính phủ cho phép xây dựng chương trình phát triển cà phê bền vững đến năm 2020; xem xét thành lập Ban điều phối quốc gia ngành hàng cà phê; thí điểm thành lập quỹ hỗ trợ rủi ro; thực hiện cơ chế hỗ trợ mua tạm trữ cà phê chủ động; xem xét đưa cà phê vào mặt hàng cần can thiệp về giá thu mua để đảm bảo người sản xuất có mức lợi nhuận tối thiểu cần thiết khi gặp rủi ro thị trường.

Bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

  1. vinacf

    lại một tên viết bài bằng lệnh copy , sử dụng chiêu ráp khúc của nhiều bài viết để đăng , thật (…………) Có ai biết ông Nguyễn Thái Hòa – Tổng Giám đốc Công ty tập đoàn Thái hòa không ? nếu không biết thì hỏi Ông Nguyễn Văn An có biết ông nay không ?

    1. Nguyễn Vịnh

      BBT-Y5Cafe tìm những bài viết có liên quan đến cà phê để phục vụ bà con. Còn độ tin cậy, tính xác thực hay cách viết thế nào thì Y5 cũng chịu, không can thiệp được. Mong bà con khi tiếp thu cũng cần có sự nhìn nhận của riêng mình.
      Nếu các bạn có phản hồi cũng xin dùng ngôn từ lịch thiệp hơn. Vì giờ đây chỉ có bà con ta với ta…!
      Thân ái. BBT.

    2. tèo anh

      Tôi xác nhận ý kiến của bạn.
      Tôi có đọc, giống mấy đoạn trong bài của Phạm Thanh Hương TTXVN, nhất là 2 đoạn về ông Nguyễn Thái Hòa và ông Lương Văn Tự thì giống y chang !

Tin đã đăng