Thời cơ giành lại thị phần xuất khẩu cà phê

Giá cà phê Arabica kỳ hạn tăng cực mạnh. Giá cà phê Robusta và thị trường cà phê nội địa lên theo, nhưng với mức độ không tương xứng.

Tăng quá nhanh, cà phê arabica trở thành đắt đỏ hơn nên chỉ số giá cách biệt giữa hai sàn kỳ hạn đang có lợi cho xuất khẩu cà phê robusta do giá đã “mềm” hơn arabica.

Giá cà phê tăng phi mã

Giá cà phê nhân xô tại thị trường nội địa tăng lên mức 38.300 đồng/kg vào ngày thứ Năm 20-2, là mức cao nhất tính từ ngày đầu niên vụ 1-10-2013 đến nay. “Mua bán đang khá nhộn nhịp song tôi rất lo vì giá kỳ hạn dao động quá lớn và thất thường, nếu không khéo, dễ thua to do rủi ro”, một đại lý tại Gia Lai báo cho biết.

bieu do gia ca phe robusta theo tuan
Biểu đồ 1: Diễn biến giá đóng cửa sàn kỳ hạn robusta Liffe NYSE trong tháng 2-2014 (tác giả cập nhật)

Thật vậy, sàn kỳ hạn vào ngày thứ Năm chao đảo khá mạnh, giá dao động tính từ mức cao đến mức thấp nhất đến 105 đô la/tấn để rồi đóng cửa ở mức 1.957 đô la/tấn, chỉ tăng nhẹ 2 đô la/tấn cơ sở tháng 5-2014, là tháng giao dịch chính hiện nay.

Giá tăng nhanh và mạnh trong khi giá nội địa theo không kịp, đã mở đường cho mức chênh lệch giữa giá niêm yết với giá nội địa giãn mạnh. Nếu dựa trên mức giá niêm yết 1955 đô la và giá nội địa 38.300 đồng/kg tương đương chừng 1820 đô la, mức chênh lệch đã xuống mức trừ 135 đô la/tấn ngày thứ Năm, nhưng đến sáng thứ Sáu 21-2 đã giảm xuống tiếp còn trừ 150 đô la/tấn. Với những mức này, các hãng kinh doanh thừa sức đưa hàng sang làm đầy lại kho cà phê robusta thuộc sàn Liffe NYSE, hiện đang trống trải dần chỉ còn 24.000 tấn sau khi chất đầy ở mức đỉnh gần 420.000 tấn vào tháng 7-2011.

Hôm qua, đóng cửa phiên cuối tuần thứ Sáu 21-2, giá kỳ hạn robusta London chốt mức 1.955 đô la/tấn, giảm 4 đô la so với trước đó nhưng tăng 1.49 đô la/tấn so với cách đây một tuần (xin xem biểu đồ 1 phía trên) và arabica New York đạt mức 169,50 xu Mỹ/pound (cts/lb), tăng 27,20 cts/lb hay 600 đô la/tấn.

Giá cà phê nhân xô nội địa sáng nay thứ Bảy 22-2 ở mức 38.000 đồng/kg, tăng gần 3.000 đồng so với tuần trước hay trừ 145 đô la/tấn dưới giá kỳ hạn.

Giá cà phê arabica tăng, liệu có bất ngờ?

Riêng tại sàn arabica Ice New York, giá khuya thứ Năm 20-2 có lúc tăng cực mạnh lên 177,50 cts/lb, là mức cao nhất tính từ 16 tháng nay. Nếu như cả năm 2013, lợi suất đầu từ trên sàn cà phê arabica giảm 23% thì chỉ từ đầu năm 2014 đến nay tăng lên tăng 57%.

Ngoài yếu tố hạn hán, lực lượng đầu cơ đang đẩy giá sàn này lên cao. Nhiều người nói giá tăng đợt này là “bất ngờ”, nhưng theo cách nhìn của một nhà phân tích thị trường tại TPHCM, hình như đã có chuẩn bị từ trước. “Tồn kho được xác nhận arabica tăng mạnh, đến nay suýt soát 160.000 tấn, cao hơn gấp 6 lần tồn kho robusta của sàn Liffe. Nếu chỉ tính mỗi tấn arabica là 3.000 đô la Mỹ, thì lượng tiền đang được đầu cơ huy động vào đấy đã trên 500 triệu đô la. Mặt khác, khi chưa có tin hạn hán, nhiều hãng kinh doanh cũng đã gióng tiếng Brazil mất mùa. Có thể trước đó, họ đã mua khống mạnh trên sàn kỳ hạn và cần đẩy giá tăng nhằm bán ra kiếm lời…”, vị chuyên gia giải thích.

Chính vì vậy, giá arabica sẽ còn có những diễn biến phức tạp, và sẽ ảnh hưởng đến robusta trong những ngày tháng tới.

Thời cơ giành lại thị phần

Tin hạn hán lớn nhất kể từ năm 1954 đến nay xảy ra tại các vùng trồng cà phê của Brazil đã giúp giá sàn kỳ hạn arabica Ice New York tăng cực mạnh trong tuần này. Có ngày giá sàn này đóng cửa tăng trên 17 cts/lb tương đương với tăng 375 đô la/tấn. Giá arabica tăng mạnh, giá robusta “ăn theo” với mức độ tăng không tương xứng. Hiện tượng này đã giúp cho giá cách biệt (arbitrage) giữa hai sàn giãn ra, có lợi cho robusta.

muc cach biet giua gia ca phe robusta va arabica
Biểu đồ 2: Giá cách biệt giữa hai loại cà phê arabica và robusta

Giá cách biệt giữa hai loại arabica và robusta hết sức quan trọng đối với các hãng rang xay, người tiêu thụ cuối cùng trong chuỗi kinh doanh nguyên liệu cà phê. Arabica là loại cà phê quyết định chất lượng tách cà phê nên có vùng sử dụng đến 70-90% loại này, trong khi robusta chỉ được dùng để phối trộn hay sản xuất cà phê hòa tan.

Khi có tin arabica được mùa và các nước sản xuất chính như Brazil, Colombia và vùng Trung Mỹ bán ra nhiều, giá arabica giảm, đưa đến hệ quả giá cách biệt giữa hai loại này co lại; ngược lại, khi mất mùa, mức cách biệt này sẽ giãn ra xa và báo hiệu rằng giá robusta đang hấp dẫn hơn arabica.

Cuối năm 2013, khi chưa có tin hạn hán, kỳ vọng được mùa arabica tại Brazil rất lớn nên giá cách biệt bấy giờ có khi chỉ 27 cts/lb hay chừng 600 đô la/tấn, hạ từ đỉnh cao trên 186 cts/lb hay 4.100 đô la/tấn. Giả sử nhà rang xay mua một tấn robusta chỉ 2.600 đô la/tấn thì phải mua arabica ở mức 6.100 đô la/tấn.

Giá cách biệt giữa hai sàn arabica và robusta hiện nay đã lên lại mức 80,05 cts/lb tức trên 1.765 đô la/tấn (xin xem biểu đồ 2 phía trên). Với mức này, nhà rang xay sẵn sàng xem xét sử dụng robusta chất lượng cao có thể thay thế arabica để hạ giá thành sản phẩm.

Từ tháng 6-2013 đến trước khi có tin hạn hán tại Brazil, do thị trường tràn ngập arabica trong khi robusta muốn giữ giá cao không bán, cộng với một số công ty nội địa mua bán lòng vòng để trốn thuế làm giá thành xuất khẩu cà phê tăng cao ngăn đường bán ra, thị phần robusta cà phê của nước ta đã giảm mất 4-5% từ tỉ lệ 18-19% vì các hãng rang xay tìm mua arabica giá rẻ do “giá nội đội giá ngoại”.

Nay, mức cách biệt giữa hai sàn kỳ hạn đang giãn ra chính là thời cơ thuận lợi cho hàng robusta Việt Nam chiếm lại thị phần thời gian qua đã để mất vào tay các nước xuất khẩu khác.

Tin tồn kho cà phê thế giới

ton kho ca phe bac my
Biểu đồ 3: Tồn kho cà phê tại Bắc Mỹ theo GCA

Báo cáo định kỳ của Hiệp hội Cà phê Hạt (Mỹ) cho biết, tính đến hết tháng 1-2014, tổng lượng cà phê tồn kho tại Bắc Mỹ đạt 5.029.338 bao, giảm 57.380 bao so với báo cáo trước đó. Bình quân tăng giảm của tháng 1 tính từ năm 1989 đến 2013 của GCA là tăng 151.872 bao (xin xem biểu đồ 3, chấm màu hông biểu thị tháng 1-2014, đường màu xanh biểu thị tăng giảm bình quân của 10 năm và màu đỏ 5 năm). Như vậy, tháng 1-2014 có mức giảm trên 200.000 bao so với bình quân. Tháng 1-2013 có mức tăng 39.730 bao, đạt 4.775.561 bao. Trong lượng tồn kho trên, không tính chừng 1 triệu bao đang được trung chuyển và nằm tại các kho rang xay. Cộng với lượng này, cà phê tồn kho tại Bắc Mỹ có thể đủ để sử dụng trong vòng 11 tuần liên tục.

Ngoài Bắc Mỹ, châu Âu và Nhật là những vùng miền tiêu thụ cà phê lớn của thế giới. Thay đổi số lượng tồn kho có ảnh hưởng nhất định đến giá thị trường.

Tồn kho robusta được sàn kỳ hạn Liffe NYSE công nhận chất lượng (certifieds) tính đến hết ngày 17-2-2014 chi còn 24.180 tấn, giảm 780 tấn so với lần báo cáo trước. Trong khi đó, tồn kho arabica certifieds thuộc Ice New York đến hết ngày 20-2 đạt 157.878 tấn.

Bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

  1. Tân Hưng

    Dành lại bằng cách nào? Gia tăng bán mạnh, bán nhiều ở mức giá này để dành thị phần? trong khi các đại gia cà phê thế giới và các nước sản xuất khác đang kháng giá, đang giữ hàng lại do kỳ vọng vào mức giá cao hơn.
    Dù sao cũng cám ơn bài viết của tác giả.

Tin đã đăng