Cà phê Robusta: Nguồn gốc và đặc điểm

Cà phê  Robusta hay còn gọi là cà phê vối thuộc giống Coffea canephora, cùng với C.Arabica đây là một trong hai loại cà phê được trồng thương mại chủ yếu trên thế giới.

Cà phê Robusta là giống cà phê được trồng chủ yếu ở Việt Nam. Từ những năm 2000 Việt Nam được ghi nhận là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới.

Tuy nhiên, cũng cần biết rằng Robusta chỉ chiếm dưới 30% tổng cơ cấu sản xuất cà phê toàn cầu, phần còn lại thuộc về giống Arabica và các giống con của nó.

Cây và quả cà phê Robusta
Cây và quả cà phê Robusta

Nguồn gốc của cây cà phê Robusta

Coffea Canephora – Cây cà phê Robusta được phát hiện lần đầu tiên ở Congo – Bỉ (thuộc châu Phi) vào những năm 1800. Coffea canephora còn là một loại cây bản địa của các khu rừng nhiệt đới xung quanh Hồ Victoria ở Uganda. Cà phê Robusta được đưa vào Đông Nam Á vào những năm 1900, sau khi bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust) đã quét sạch toàn bộ giống Arabica ở Sri Lanka năm 1869 (hay 1867 theo Wiki), đồng thời tấn công hầu hết các đồn điền ở Java – Indonesia năm 1876.

Hiện tại Robusta chiếm từ 30% đến 40% tổng sản lượng cà phê thế giới, phổ biến ở Tây và Trung Phi, Đông Nam Á, Trung – Nam Mỹ chủ yếu là Brazil (nơi nó được gọi là Conillon).

Việc phổ biến cây cà phê Robusta bắt đầu gần sông Lomani, một nhánh của sông Congo ở Trung Phi. Thông qua một vườn ươm ở Brussels, cà phê Robusta từ Congo (Cộng hòa Dân chủ Congo) đã được chuyển đến Java. Từ đây, nó đã được nhân giống thành công để thiết lập các đồn điền ở các quốc gia khác như Ấn Độ, Uganda và Bờ Biển Ngà

The Craft and Science of Coffee

Bản đồ phân bố của cà phê Arabica và Robusta (The coffee bean belt)
Bản đồ phân bố của cà phê Arabica và Robusta (The coffee bean belt) [r] khu vực trồng Robusta, [a] khu vực trồng Arabica, [m] canh tác cả hai loại | Ảnh Wikimedia
Khu vực trung tâm châu Phi vốn được xem là nguồn gốc của hai loài cà phê thương mại chính bao gồm Coffea arabica (tức Arabica) và Coffea canephora (tức là Robusta). Mặc dù Robusta từ lâu đã được coi là anh/em cùng họ (Thiến thảo) xấu xí của Arabica, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng trên thực tế không phải vậy. Hóa ra Robusta thực sự là cha/mẹ của giống Arabica. Bằng cách phân tích trình tự gen của của các loài thuộc giống cà phê, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng, ở miền nam Sudan, Coffea canephora đã lai với một loài khác có tên Coffea euginoides sinh ra giống Coffea arabica – tức cà phê Arabica

Phân bố của cây cà phê Robusta

Hoạt động canh tác cây cà phê Robusta đã được bắt đầu vào đầu thế kỷ 19 – vì những thiệt hại đáng kể do CLR gây ra đối với các đồn điền C. rabica ở châu Á.

Theo các tài liệu đáng tin cây (Charrier and Eskes, 1997), cà phê Robusta đã được mang đến Java, Indonesia vào năm 1901 Cộng hòa Dân chủ Congo (Cộng hòa Congo).

Những cây Robusta này đã nhanh chóng có mặt tại Châu Phi và được những người nông dân châu Phi đầu tiên chấp nhận nhờ sức sống, năng suất và khả năng chống lại CLR. Đồng thời, một số loài haong dã khác của Robusta như KouillouMaclaudi GameNiaouli hoặc Coffea ugandae cũng được triển khai ở các quốc gia khác nhau như Bờ biển Ngà, Guinea, Togo hoặc Uganda, tương ứng.

Quả cà phê Robusta
Năm 1908, người Pháp đã đưa Robusta cùng với một giống khác là Excelsa vào Tây Nguyên (sucafina)

Từ sau những năm 1960, các dòng nhân giống vô tính mới của Robusta đã được phát triển ở Uganda, Congo, và sau đó ở Bờ Biển Ngà. Tuy nhiên, không có nhiều thay đổi về đặc tính so với các cây ban đầu. Ngày nay, chỉ có một số quốc gia tiếp tục với chương trình tuyển chọn cho thương mại, với một số cải thiện.

Điển hình là ở Bờ Biển Ngà – Nơi năng suất được tăng từ 30% đến 110% và kích cỡ hạt tăng 50%. Một số giống mới cũng được phát triển ở Brazil nơi nó được gọi là Conillon.

Đặc điểm thực vật học

Ngay cả khi một số cây cà phê Robusta được tìm thấy ở những nơi có độ cao 2,300m so với mực nước biển, thì hầu hết các loài (67%) đều thích nghi với phạm vi giới hạn độ cao dưới 1000m.

Cà phê Robusta là điển hình trong nhóm “dễ thích nghi”, nên chúng được trồng ở các khu vực thấp hơn Arabica (chỉ trong tầm 0 – 800m). Bù lại Robussta yêu cầu lượng mưa khá lớn (từ 1200 – 2500mm) do đó, hầu hết các loài có phân bố rộng ở lục địa châu Phi (tức là C. canephoraC. eugenioides) thường được tìm thấy trong môi trường ẩm ướt.

Cà phê Robusta (cà phê vối) tại Kontum
Cà phê Robusta (cà phê vối) tại Kontum – Việt Nam

Cà phê Robusta có một số ưu điểm nổi trội so với cây cà phê Arabica như khả năng chống bệnh gỉ sắt (Coffee Leaf Rust), sâu đục thân, các bệnh tuyến trùng,.. và cho năng suất cao hơn cà phê Arabica nhiều.

Với những ưu điểm vượt trội của cây cà phê Robusta mà chi phí trồng Robusta cũng thấp hơn so với các giống cà phê Arabica. Mặt khác, không có khả năng chịu đựng các điều kiện hạn hán kéo dài, chịu lạnh kém (nhiệt độ tối thích trong khoảng (18 – 36oC), sản lượng không ổn định so với Arabica, đây là một số thuộc tính tiêu cực của cà phê Robusta.

Nhận diện hương vị cà phê Robusta

Hương vị của cà phê Robusta luôn được đánh giá là kém cạnh hơn so với Arabica từ trước đến nay. Chất vị nhìn chung đậm, chát và đắng hơn nhiều so với Arabica. Kể từ khi cà phê Arabica được cho là có chất vị mượt mà với tính axit (Acidity) cao hơn và một hương vị phong phú hơn, chúng thường được coi là cao cấp.

Thêm vào đó các khu vực trồng và chế biến cà phê Robusta hầu hết tập trung chế biến khô (thay vì chế biến ướt như các giống Arabica), dẫn đến hương vị càng chát đắng hơn, có mùi từ ngũ cốc đến gỗ, đất sau khi rang.

Trong tự nhiên, Chlorogenic Acid (CGA) và Cafeine có vai trò giúp cây cà phê chống lại côn trùng. Vì vậy chúng “Robus” (nghĩa là khỏe mạnh) hơn so với Arabica.

“Độ đắng” của Robusta

Cần hiểu rằng, mặc dù được gọi là “Axit”, nhưng Chlorogenic Acid (CGA) không đặc trưng bởi “vị chua” mà là “vị đắng”. Trong quá trình rang, CGA sẽ phân hủy để tạo thành axit caffeic và axit quinic (khoảng 50% số CGA gốc bị phá hủy trong một hạt rang vừa).

Cùng với caffeine – những chất này gây nên vị đắng khắc nghiệt thường thấy ở Robusta. Đó là lý do vì sau chúng ta nói Robusta có gấp đôi lượng axit – nhưng thực sự nó không hề chua, mà đắng hơn Arabica (theo coffeechemistry).

cà phê Robusta
Cho đến nay, cà phê Robusta có nồng độ Axit Chlorogenic (CGA) cao nhất so với bất kỳ loài thực vật nào mà chúng ta từng biết đến, với 7- 10% trong mỗi hạt – theo coffeechemistry

Tuy nhiên bù lại thiệt thòi về chất vị, cà phê Robusta có hàm lượng Caffein trung bình cao gấp đôi so với Arabica (2% -2.5% so với 1.1% -1.5%). Vì vậy sự kết hợp cà phê Arabica cùng Robusta cho tổng hòa chất lượng tương đối cao hơn cà phê Arabica, chính vì điều này các loại cà phê Ý (Espresso) luôn có 10 -15% cà phê Robusta để tăng cường hương vị và tạo lớp Crema hấp dẫn hơn.

Và từ thực tiễn sản xuất cho thấy, cà phê Robusta khi được chế biến ướt có thể cho phẩm chất cao hơn các giống Arabica thông thường (vì Arabica có rất nhiều chủng loại và không phải loại nào cũng tốt). Nên sự so sánh Arabica và Robusta đôi khi không hoàn toàn chính xác.

>> Cách nhận biết hương vị cà phê robusta nguyên bản

Theo PrimeCofee


Nguồn tham khảo:

  • www.coffeechemistry.com/ Differences between Arabica and Robusta Coffee
  • www.thecoffeeguide.org/ Robusta – the species
  • www.espressocoffeeguide.com/ Robusta Coffee Bean
Bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Tin đã đăng