Điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lao động dồi dào, nhiều loại nông sản chiếm vị thế độc tôn trên thị trường thế giới nhưng có một nghịch lý là nông dân vẫn nghèo. Theo các chuyên gia, vấn đề mấu chốt bây giờ là nhận diện chính xác điểm mạnh, điểm yếu để tận dụng lợi thế, dần loại bỏ điểm yếu.
Thu hái chè ở Mộc Châu (Sơn La)
Quá nhiều tồn tại
Chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan cho rằng, việc sản xuất và xuất khẩu nông sản chưa đạt giá trị gia tăng như mong muốn là do chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm, mức độ áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trong sản xuất thấp, tổn thất sau thu hoạch lớn; giao dịch mua bán theo phương thức truyền thống “mua xô – bán xô”; chủng loại hàng nông sản đơn điệu, thiếu bền vững, giá cả phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu… Trong đó, thực trạng giá nông sản xuất khẩu “phập phồng” theo giá thế giới là đáng lo ngại nhất.
Theo thống kê của Bộ Công Thương, trong năm 2010, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đạt mức kỷ lục, 19,15 tỉ USD, tăng 22,6% so với năm 2009. Sở dĩ có kết quả này là do sự tăng giá của nhiều mặt hàng xuất khẩu như cao su, hạt điều, hồ tiêu, sắn… đem lại, trong đó có 3 mặt hàng đạt kim ngạch trên 3 tỷ USD là thủy sản, đồ gỗ, gạo. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, giá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng nông sản của Việt Nam phụ thuộc mạnh vào sự biến động giá của thị trường thế giới. Cũng vì thế, sự tăng trưởng nhờ biến động giá như trong thời gian qua không phải là hướng phát triển bền vững mà chúng ta hướng tới.
Ngoài kiểu “ăn đong” nhờ biến động giá, các khâu còn lại của quy trình xuất khẩu chúng ta cũng làm chưa tốt. Ông Đoàn Xuân Hòa, Phó cục trưởng Cục Chế biến nông, lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ Nông nghiệp và PTNT) nhận xét: “Hầu hết các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của chúng ta đều chưa được chú trọng đầu tư xây dựng thương hiệu, phẩm cấp. Hiện tại, quy trình sản xuất và bán nông sản không theo một tiêu chuẩn kỹ thuật nào khiến sản phẩm bị giảm cấp, giảm giá. Trên thực tế, dù đứng thứ năm thế giới về sản lượng, kim ngạch xuất khẩu và đã vươn tới 70 quốc gia, vùng lãnh thổ nhưng chưa bao giờ chè Việt Nam có vị trí tốt trên thị trường thế giới do chưa có thương hiệu, chất lượng thấp, giá trị không cao. Khi sang Tây Ban Nha công tác, tôi thấy chè của họ bán trên sàn giao dịch với giá 3,7USD/kg, còn chè xanh Việt Nam chưa được 1 USD/kg”.
Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 1 triệu tấn càphê, đứng thứ hai thế giới, nhưng kim ngạch chỉ đứng thứ tư. Đáng buồn hơn, theo số liệu của Tổ chức Càphê thế giới, trong tổng số lượng càphê xuất khẩu bị thải loại có tới 88% của Việt Nam. Điều này chứng tỏ hoạt động sản xuất, kinh doanh càphê của Việt Nam luôn ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ông Phan Huy Thông, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và PTNT) khẳng định, hiện chỉ có khoảng 10% lượng càphê được phân loại theo tiêu chuẩn khi xuất khẩu, còn lại đều xuất thô nên thường bị thua thiệt về giá.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam cũng cho biết, gần đây có hiện tượng một số nước sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu lớn trên thế giới như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia nhập một lượng đáng kể tiêu của Việt Nam rồi tái xuất, dĩ nhiên là dưới thương hiệu của họ. Nguyên nhân do giá tiêu của Việt Nam thấp trong khi giá tiêu xuất khẩu của họ cao hơn vài trăm USD/tấn.
Cùng với sự gia tăng về lượng của nông sản, số cơ sở chế biến cũng tăng chóng mặt. Đơn cử như ngành chè, mỗi năm xuất khẩu khoảng 100.000 tấn nhưng có tới 625 doanh nghiệp tham gia chế biến. Dù không phủ nhận sự tham gia của các thành phần kinh tế, ông Hòa cảnh báo sự bung ra vô tội vạ trên đã “kéo” công nghiệp chế biến chè trở về quy mô sản xuất nhỏ, tiểu nông và giật lùi về chất lượng. “Trước kia, chúng ta uống chè được hái theo chuẩn một tôm hai lá, nhưng giờ toàn hái một tôm rất nhiều lá nên thế giới trả giá rất thấp”, ông Hòa cho biết. Đang sở hữu 9 nhà máy chế biến càphê trong nước và còn mở rộng sản xuất sang Lào, nhưng ông Nguyễn Văn An, Tổng giám đốc Tập đoàn Thái Hòa vẫn lo lắng về hiệu quả đầu tư cho hoạt động chế biến. Riêng tại Lâm Đồng, tổng số nhà máy chế biến càphê đã vượt quá 1,5 lần sản lượng, gây ra tranh chấp vùng nguyên liệu. Ông An nêu một thực tế, phần lớn càphê xuất khẩu thô nên đa số nhà máy chế biến trong nước “đói” nguyên liệu, chỉ hoạt động dưới 50% công suất.
Dù đã có nhiều năm “chinh chiến”, nhưng khả năng và sức chịu đựng của các doanh nghiệp ngành gạo rất kém. Ông Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, tình trạng thiếu kho dự trữ khiến doanh nghiệp xuất khẩu gạo dễ bị đối tác nước ngoài ép giá vì “không bán nhanh chẳng biết chứa ở đâu”. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và PTNT, mỗi năm cả nước thu hoạch 38 triệu tấn lúa, nhưng sức chứa của hệ thống kho chỉ vẻn vẹn hai triệu tấn. Với lượng gạo tồn kho gần tối đa như hiện nay, nhiều doanh nghiệp ngành gạo luôn trong tâm trạng lo lắng không xuất khẩu được phải trả lãi ngân hàng nên đành… bán giá thấp.
Lãng phí tiềm năng
Hiện, nông sản của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhiều mặt hàng vượt qua kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD. Đáng lẽ, với thế mạnh của các loại nông sản nhiệt đới, thị trường rộng mở, xuất khẩu phải đạt hiệu quả cao, đem lại nguồn thu lớn cho nông dân và các doanh nghiệp nhưng thực tế lại không như mong muốn, thu nhập của người sản xuất vẫn rất thấp. Theo khảo sát của ngành chức năng, thu nhập bình quân của người trực tiếp sản xuất nông nghiệp chỉ đạt 400 – 450 USD/năm, không tương xứng với công sức và chi phí đầu tư bỏ ra. Trong khi mức lợi nhuận thu được của người sản xuất theo tiêu chí phấn đấu mà Chính phủ đưa ra là 30 – 40% có lẽ còn lâu chúng ta mới đạt được.
Cũng vì không xác định được thế mạnh, Nhà nước và các ngành chức năng chưa xây dựng được chiến lược phát triển sát thực và dài hơi nên nông dân thấy loại cây trồng gì có lợi trước mắt là nhân rộng ồ ạt mà ít quan tâm đến chất lượng và vấn đề cung – cầu trên thị trường. Thế mới có chuyện cười ra nước mắt, trên mảnh đất của mình chỉ trong một thời gian ngắn có người đã phá mía trồng sắn, rồi phá sắn trồng điều, phá điều trồng tiêu… Thêm vào đó, vì chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tìm mọi cách thu mua cho đủ số lượng với giá rẻ mà bỏ qua nhiều khâu kiểm tra, đánh giá chất lượng. Chính vì cung cách sản xuất, kinh doanh như thế nên chất lượng nông sản xuất khẩu ít được quan tâm. Trên thực tế, gạo xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn gạo Thái Lan 15 – 20USD/tấn, càphê từ 100 – 150USD/tấn, chè thấp hơn 400 – 500USD/tấn…
Từ lâu, khi xác định các thế mạnh, tiềm năng của ngành Nông nghiệp và PTNT, chúng ta không bao giờ quên “điểm danh” những yếu tố như: điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn lao động dồi dào… Tuy nhiên, điều đáng nói là, điều kiện tự nhiên chỉ là một yếu tố của quá trình sản xuất, với nguồn lao động nhiều, sau hàng thập kỷ chúng ta không chú trọng nâng cao trình độ sản xuất, canh tác cho bà con thì chất lượng lao động thấp tất yếu dẫn đến chất lượng hàng hóa thấp. Cũng vì thế, hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam phải “núp bóng” thương hiệu của nước thứ ba sẽ còn được bàn đến rất nhiều!
Tổn thất sau thu hoạch đang là một tồn tại lớn của ngành Nông nghiệp và PTNT. Đến thời điểm hiện nay, mỗi vụ hè thu, ĐBSCL lại hao hụt 13,7% của 8 triệu tấn lúa.
Tại An Giang, mỗi năm có trên 200.000ha lúa hè thu phải thu hoạch trong mùa mưa lũ, song toàn tỉnh chỉ có 1.464 máy sấy, công suất từ 4 – 8 tấn/mẻ, đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu. Sợ thua lỗ là lý do chính để nông dân từ chối đầu tư xây dựng lò sấy, dù ngay từ năm 2001, UBND tỉnh An Giang đã có chủ trương cho nông dân, hợp tác xã nông nghiệp mượn vốn không lãi suất trong vòng 3 năm để phát triển hệ thống lò sấy lúa.