Theo đánh giá của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO), thị trường cà phê thế giới trong thời gian tới sẽ tiếp tục ở trong tình trạng thừa cung lớn.
Sản lượng cà phê thế giới vụ 2002/2003 (từ tháng 10/2002 đến tháng 9/2003) sẽ đạt 122,6 triệu bao, tăng 10,75% so với vụ trước. Trong đó, sản lượng cà phê vụ 2002/2003 dự đoán sẽ tăng chủ yếu ở Brazil, tăng 39% so với vụ trước, còn sản lượng của các nước xuất khẩu lớn khác như VN, Colombia, Indonesia dự đoán đều giảm 5-19%.
Kiểm soát hiệu quả thị trường cà phê?
Nhu cầu tiêu thụ cà phê thế giới vụ 2002/2003 dự đoán tăng 1,5% so với vụ trước, lên 109,9 triệu bao nhưng vẫn thấp hơn sản lượng tới 12,7 triệu bao. Làm cho lượng tồn kho cà phê thế giới đến cuối vụ dự kiến có thể tăng hơn 29% so với vụ trước.
Tuy nhiên ICO cũng cho rằng, thị trường cà phê sẽ được kiểm soát một cách hiệu quả. Năm 2002 các nước thành viên thuộc ICO đã đạt được thoả thuận, từ vụ 2002/2003 sẽ thực hiện tiêu chuẩn mới đối với cà phê xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng cà phê. Theo đó, các nước xuất khẩu cà phê không chỉ huỷ bỏ cà phê chất lượng kém mà còn dần cải tạo trồng trọt và chế biến cà phê để đạt tiêu chuẩn mới của ICO.
Nhiều nước đang tích cực tham giachơng trình của ICO.Tại Brazil, Chính phủ đã hỗ trợ một phần kinh phí cho Hiệp hội xuất khẩu cà phê Brazil để thực hiện kế hoạch gia tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê chế biến (cà phê tan, cà phê bột, cà phê rang xay).Chính phủ Colombia đã thông qua chương trình 3 năm cải tạo cây cà phê có năng suất và chất lượng cao.
Tại Trung Mỹ và Mexico, trong vụ 2002/2003 các nước xuất khẩu cà phê khu vực này tiếp tục thực hiện kế hoạch bỏ 5 triệu bao cà phê chất lượng kém. Kế hoạch này đã được thực hiện từ vụ 2001/2002.
Còn VN đã khẳng địnhsẽ xuất khẩu cà phê theo tiêu chuẩn mới của ICO từ 1/4/2003.
XK cà phê VN giảm mạnh
Theo Hiệp hội cà phê ca cao VN (VICOFA), thời tiết khô hạn kéo dài năm 2002 tại các tỉnh Tây Nguyên, khu vực trồng cà phê lớn nhất của VN đã làm giảm mạnh diện tích và năng suất cà phê. Do vậy, sản lượng cà phê vụ 2002/2003 (từ tháng 10/2002 đến tháng 9/2003) của VN dự đoán chỉ đạt 576 -600.000 tấn và giảm 32-34% so với vụ 2000/2001.
Trong đó sản lượng cà phê của Đắk Lắk, nơi chiếm hơn 60% tổng sản lượng cà phê của VN, vụ 2002/2003 dự đoán chỉ đạt 300.000 tấn, giảm 21% (80.000 tấn) so vụ trước. Ngoài ra, hạn hán còn làm thu hoạch cà phê của VN vụ này bị chậm gần 1 tháng.
Tất cả những nhân tố trên làm cho XK cà phê của VN giảm mạnh, tháng 1/2003 XK đạt khoảng 60.000 tấn, giảm 34,4% so với cùng kỳ nămtrước. Tuy nhiên, nhờ giá xuất khẩu cà phê của VN tháng 1/2003 đã tăng kỷ lục, tăng 95,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt bình quân 667 USD/tấn, FOB.
Cho nên kim ngạch XK cà phê của VN đến nay đã đạt trên 40 triệu USD. Mặc dù những đánh giá mới nhất của Chính phủ Brazil cho thấy, sản lượng cà phê vụ 2002/2003 (từ tháng 7/2002 đến tháng 6/2003) ước tính đạt mức cao kỷ lục 46,2 triệu bao (1 bao = 60 kg) tăng gần 40% (13,2 triệu bao) so với vụ trước. Tuy nhiên, hạn hán nặng nề suốt quý 4/2002 ở các vùng trồng cà phê của Brazil sẽ làm sản lượng cà phê vụ 2003/2004 (từ tháng 7/2003 đến tháng 6/2004) dự đoán sẽ giảm mạnh. Giảm 39-41% so với vụ trước, còn 27-28 triệu bao. Điều này đã làm các nhà XK cà phê Brazil hạn chế bán ra nhằm củng cố tồn kho cho thời gian tới.
XK cà phê của Colombia và Indonesia cũng giảm sút cùng sản lượng giảm. Tháng 1/2003, XK cà phê của Colombia đạt 750.000 bao, giảm 8% so với cùng kỳ năm trước; của Indonesia đạt 375.000 bao, giảm 12,2%. Tình trạng giảm sút sản lượng làm cho nguồn cà phê của các nước XK cà phê lớn tiếp tục hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu mua cà phê vào của các nhà đầu tư và các nhà máy rang xay cà phê trên thế giới tăng đã thúc đẩy giá tăng nhanh hơn.