Ngành cà phê Việt Nam với chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn

I. Giới thiệu vài nét về ngành cà phê Việt Nam

Trong vòng 20 năm cuối thế kỷ 20 ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cà về diện tích, năng suất, tổng sản lượng và lượng cà phê xuất khẩu.

Nếu năm 1980, cả nước chỉ có 22.500 ha, trong đó diện tích ở thời kỳ sản xuất có 10.800 ha, sản lượng chỉ đạt 8.400 tấn (năng suất 0,78 tấn/ha) thì 20 năm sau, năm 2000, năm cuối của thiên niên kỷ, cả nước đã có 533.000 ha, trong đó diện tích sản xuất có 385.000 ha với sản lượng 720.000 tấn (năng suất 1,87 tấn/ha) và xuất khẩu được 705.300 tấn.

Trong vòng 15 năm từ 1990 đến 2004, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể:

  • Sản xuất được: 6.493.700 tấn
  • Xuất khẩu: 6.236.437 tấn

Đạt kim ngạch XK: 5.289.620.344 USD với đơn giá bình quân 15 năm là 848,18 USD/T

(Xem biểu và đồ thị)

Bảng 1: Diện tích trồng, sản lượng và xuất khẩu cà phê diễn biến qua các năm từ 1980 đến 2004 (Nguồn: VICOFA)

Năm

Tổng

diện tích

Diện tích

kinh doanh

Năng suất trung bình/ha

(tấn)

Tổng sản lượng (tấn)

Xuất khẩu

(tấn)

Trị giá (USD)

Giá xuất khẩu trung bình (USD/T)

1980

22.500

10.800

0,78

8.400

1981

19.100

9.500

0,49

4.630

4.600

1982

19.800

9.100

0,51

4.600

4.600

1983

26.500

9.100

0,44

4.000

3.400

1984

29.500

19.100

0,65

12.340

9.400

1985

44.600

19.800

1,03

20.400

23.500

1986

65.600

26.500

0,84

22.140

26.000

1987

92.300

29.400

1,15

33.820

30.000

1988

119.900

44.700

1,07

48.000

45.000

1989

123.100

65.600

0,95

62.100

56.900

1990

135.500

92.300

1,00

92.000

68.700

59.160.000

861,14

1991

135.000

111.900

1,06

119.000

76.800

65.437.000

852,04

1992

135.000

123.000

1,11

136.000

87.500

63.682.000

727,79

1993

140.000

135.500

1,04

140.500

124.300

113.000.000

909,09

1994

155.500

135.000

1,34

181.200

163.200

320.000.000

1.960,78

1995

205.000

135.000

1,81

245.000

222.900

533.524.000

2.393,56

1996

285.500

140.000

2,00

280.000

248.500

366.200.000

1.473,64

1997

385.000

155.500

2,57

400.000

375.600

479.116.000

1.275,60

1998

485.000

205.000

2,00

410.000

387.200

600.700.000

1.551,39

1999

529.000

285.000

1,75

500.000

646.400

563.400.000

871,60

2000

533.000

385.000

1,87

720.000

705.300

464.342.000

658,36

2001

535.000

485.000

1,86

900.000

844.452

338.094.000

400,37

2002

500.000

450.000

2

750.000

702.017

300.330.686

427,81

2003

450.000

420.000

1,71

720.000

693.863

446.547.298

643,57

2004

900.000

889.705

576.087.360

647,50

Với sản lượng như vậy, Việt Nam trong một thời gian ngắn đã được xếp vào một trong những nước sản xuất và xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.

Bảng 2. Xuất khẩu và trị giá cà phê xuất khẩu của 10 nước đứng đầu thế giới

Khối lượng và trị giá xuất khẩu cà phê các dạng của 10 nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới

Từ năm 1997 đến năm 2002 (đơn vị: bao 60kg và 1000 USD)

Tháng 1 đến tháng 12

Chênh lệch

1997 (1)

1998 (2)

1999 (3)

2000 (4)

2001 (5)

2002 (6)

(6) – (1)

(6) – (5)

Tổng số

Lượng

80.263.653

79.920.616

85.429.882

89.025.237

90.382.643

87.653.104

7.389

2.729.539

Trị giá

12.880.155

11.425.622

9.466.710

8.174.647

5.442.285

5.266.900

-7.613.255

-175.385

Brazil

Lượng

16.841.537

18.158.786

23.138.844

18.015.506

23.172.405

27.908.391

11.066.854

4.735.986

Trị giá

3.100.122

2.594.283

2.459.055

1.771.804

1.412.034

1369.455

-1.730.667

-42.579

Colombia

Lượng

10.918.863

11.259.929

9.995.668

9.175.370

9.943.630

10.273.530

-645.333

329.900

Trị giá

2.421.694

2.044.862

1.422.319

1.196.215

869.734

874.187

-1.547.507

4.453

Việt Nam

Lượng

6.177.834

6.466.712

7.741.988

11.618.554

13.945.528

11.767.407

5.589.573

2.178.121

Trị giá

556.070

600.670

564.046

458.750

342.819

302.852

-253.218

-39.967

Indonesia*

Lượng

5.755.078

5.597.818

5.064.609

5.193.534

5.394.235

4.608.538

-1.146.540

-785.697

Trị giá

604.671

592.912

438.462

311.040

254.976

277.610

-327.061

22.634

Guatamela

Lượng

4.243.882

3.541.853

4.680.593

4.852.088

4.110.378

3.491.328

-752.554

-619.050

Trị giá

619.962

584.396

586.951

571.061

304.777

269.895

-350.067

-34.883

Mehico

Lượng

502.424

3.399.026

4.357.625

5.303.704

3.333.166

2.644.644

-1.857.780

-688.522

Trị giá

934.090

640.569

580.583

646.649

290.135

231.698

-702.392

-58.436

Ấn độ*

Lượng

2.640.111

3.487.014

3.612.690

4.440.572

3.739.804

3.407.231

767.120

-332.573

Trị giá

421.471

456.379

382.691

416.156

243.047

206.526

-214.945

-36.521

Hondura

Lượng

1.722.482

2.329.274

1.986.603

2.879.133

2.391.613

2.711.260

988.778

319.647

Trị giá

326.233

429.732

256.095

335.009

160.728

183.513

-142.720

22.785

Ethiopia

Lượng

1.979.733

1.917.061

1.818.087

1.981.856

1.376.062

2.054.678

74.945

678.616

Trị giá

384.359

377.944

264.212

251.079

140.865

161.478

-222.881

20.613

Costa Rica

Lượng

2.099.239

2.044.558

2.194.906

1.964.348

2.018.297

1.784.034

-315.205

-234.263

Trị giá

411.899

391.936

325.581

259.548

170.555

156.825

-255.074

-13.730

Chú thích: * Số liệu ước tính

Bảng 3:Lượng nhập cà phê của một số nước nhập khẩu hàng đầu của cà phê Việt Nam qua 4 vụ (2000/01 – 2003/04)

TT

Tên nước

Vụ 2000/01

Vụ 2001/02

Vụ 2002/03

Vụ 2003/04

1

Germany

134.321

112.739

106.059

164.625

2

USA

137.501

89.288

83.991

108.069

3

Spain

73.852

59.777

59.794

81.876

4

Belgium

138.603

51.170

60.161

78.624

5

Italy

62.559

56.263

51.641

61.916

6

Poland

38.155

47.500

57.179

60.377

7

United Kingdom

30.153

25.799

23.890

39.961

8

France

45.998

33.956

38.754

36.197

9

Korea

26.288

26.162

35.310

34.023

10

Japan

26.905

29.517

19.640

25.164

11

Australia

14.940

16.594

16.878

15.493

12

Netherland

15.040

18.805

12.022

14.973

Cộng (tấn)

744.315

567.570

565.319

721.298

% so với tổng lượng xuất khẩu

85,1

79,5

81,8

83,1

Thị trường cà phê Việt Nam ngày càng được mở rộng. Có thể xem lượng nhập khẩu cà phê từ Việt Nam của 12 nước đứng hàng đầu trong số khoảng 60 nước và địa bàn lãnh thổ tiêu thụ cà phê Việt Nam qua 4 vụ (2000/01 đến 2003/04) Bảng 3

Trong trên nửa triệu hecta cà phê, có tới trên 85% diện tích là thuộc về các chủ vườn, những người nông dân thuộc nhóm dân tộc Kinh, Thái, H’Mông, Êđê, Gia Rai, M’nông,… Theo số liệu thông kê năm 2002 thì có    hộ nông dân trồng cà phê, có cuộc sống liên quan đến sản xuất cà phê.

Vì thế mà ngành cà phê là một trong những phân ngành nông nghiệp khá quan trọng và quan hệ mật thiết với chương trình phát triển nông thôn Việt Nam.

II. Cây cà phê và chương trình xoá đói giảm nghèo ở nông thôn cao nguyên và miền núi.

Đánh giá vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng ở miền núi người ta thường nêu lên nhiều giá trị của nó với các chương trình trọng điểm của nhà nước như góp phần định canh định cư đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ môi trường,… và thực tế ở một số nơi cây cà phê đã thể hiện đúng những gì người ta đã đánh giá về nó. Nông dân một số nơi có người Kinh, Thái, H’Mông, Êđê, M’Nông,…đều đã xác nhận điểm này.

Tuy nhiên cũng có một số nơi cây cà phê đã không mang lại kết quả mong muốn. Đồng bào không đủ vốn và cả kỹ thuật chăm sóc, vườn cà phê còi cọc không cho sản lượng như mục tiêu kế hoạch đề ra, thậm chí cũng có những nơi cà phê phải huỷ bỏ hàng loạt. Có thể nêu những nguyên nhân chủ yếu sau:

  1. Cà phê là “cây của người giàu”. Nghĩa là cây cà phê là một cây công nghiệp đòi hỏi người trồng có đủ vốn đầu tư với những hiểu biết kỹ thuật đầy đủ. Cây cà phê phát triển tốt, cho hiệu quả cao, thậm chí rất cao, ở những nơi chủ vườn có đủ các điều kiện trên. Nói như thế có phải là mâu thuẫn với tác dụng xoá đói giảm nghèo của cây cà phê hay không. Theo chúng tôi nghĩ là nó không mâu thuẫn mà muốn phát triển cây cà phê nó đòi hỏi những điều kiện kèm theo, điều kiện “ắt có”.

Còn ở những hộ nông dân nghèo, thiếu vốn thì cà phê ngoài tác dụng tạo công ăn việc làm ra còn thì không thể mang lại sự giàu có cho chủ hộ.

  1. Cây cà phê góp phần xoá đói giảm nghèo cho nông dân nếu được nhà nước hỗ trợ về vốn những năm đầu và được chuyển giao kỹ thuật đầy đủ.

Một số nơi chỉ nhận được vốn vay trồng cà phê nhưng sau đó không có vốn chăm sóc tiếp theo thì nông dân cũng đành bỏ cho vườn cà phê đói khát, còi cọc. Công tác chuyển giao kỹ thuật không làm đầy đủ, nông dân nhiều nơi chưa nắm được kỹ thuật từ khâu chọn đất trồng, chọn giống, những cây giống để trồng vườn cà phê hoàn chỉnh…. đến có thể có những sai sót ảnh hưởng xấu đến kết quả.

  1. Để phát triển tốt cà phê, cải thiện đời sống nông dân, phát triển nông thôn trên cả các mặt môi trường, kinh tế, xã hội, rõ ràng nhà nước cần có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh về nông dân, nông thôn, từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Chương trình đó gắn nhiều phân đoạn kế tiếp nhau. Các cơ quan nghiên cứu cần chỉ ra các vùng quy hoạch trồng cà phê đúng đắn, xác định rõ giống cà phê thích hợp. Cơ quan khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật trồng đúng đắn, bảo đảm cà phê phát triển bền vững. Khâu chế biến cần có chủ trương phù hợp với tổ chức sản xuất, quy mô sản xuất.

Khâu tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng vì người nông dân yêu cầu sản phẩm họ làm ra được thị trường chấp nhận và tiêu thụ với hiệu quả kinh tế tương xứng.

Tất cả các khâu đó nếu thiếu một khâu nào cũng ảnh hưởng xấu đến sản xuất của nông dân và tác động xấu đến sự phát triển của nông thôn.

Ở nhiều nước người ta đã thành lập ra những tổ chức, những quỹ hỗ trợ cho việc phát triển cà phê như ở Cốt Đivoa và một số nước Châu Phi khác trước đây đã có CAISTAF nay đã đổi thành BCC

  1. Hợp tác hoá cũng là một yêu cầu bức thiết của ngành cà phê

Một trong những chính sách quan trọng ở nông thôn là hợp tác hóa nông dân, trong đó có nông dân trồng cà phê. Hợp tác hoá nông dân trồng cà phê đã được thực hiện ở nhiều nước từ những năm rất sớm của thế kỷ trước, như ở Kenya, những vùng trồng cà phê đã có hợp tác xã của mình giúp cho nhiều khâu từ sản xuất, hướng dẫn bón phân theo kết quả phân tích lá, phòng trừ sâu bệnh cho đến kiểm tra chất lượng bằng thử nếm và bán đấu giá cà phê.

Ở Braxin cũng có những hợp tác xã quy mô rất lớn, quản lý hàng triệu bao cà phê của một vùng cà phê rộng lớn.

Ở nước ta vấn đề hợp tác hoá thực hiện có thể nói là còn yếu ớt, chậm chạp. Ngành cà phê Việt Nam muốn có sản phẩm chất lượng cao không thể chỉ dựa vào cái sân phơi nhỏ với cái máy xát tươi quay tay hay đạp chân ở từng hộ nông dân. Phải đưa các thiết bị tiên tiến vào cho khâu chế biến. Nhưng thiết bị tiên tiến đòi hỏi quy mô lớn hơn hộ gia đình. Nó có dạng như các trạm rửa “Station de lavage” trong các chương trình hợp tác với cơ quan phát triển Pháp. Đó là quy mô hợp tác xã.

Hợp tác xã cà phê không chỉ giúp nông dân trong các khâu trồng trọt, chế biến mà quan trọng hơn nữa là cả trong khâu tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm.

Trong Hội nghị cà phê thế giới lần thứ II họp ở Salvador Bahia Brazil ngày 25/9/05, bà Lak Suvi, nguyên chủ tịch Cục cà phê Ấn độ, thành viên Ban điều hành tổ chức cà phê quốc tế, trong bài phát biểu của mình đã nói: “Những chủ vườn nhỏ dưới mức tư bản hoá và không được tổ chức thì không thể gặt hái được những cơ hội trong quan hệ với thị trường. Ở đây có vấn đề tổ chức nông dân cà phê, vấn đề hợp tác hoá nông dân trồng cà phê nhằm tạo cho nông dân có khả năng tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm của mình có hiệu quả. Đây là các hợp tác xã chuyên ngành cà phê gắn những người cùng sản xuất ra sản phẩm cà phê nhằm giúp đỡ các hộ nông dân các dịch vụ đầu vào, đầu ra… xây dựng và điều phối quy trình sản xuất tập thể trong sản xuất và không lấy lãi từ các dịch vụ đó mà thu lợi ích từ các hoạt động tập thể  mang lại. Hợp tác xã kiểu mới giúp nông dân tiếp cận và tham gia thị trường, xâm nhập hoạt động ở các chợ đầu mối cà phê, các sàn giao dịch cà phê, giúp nông dân chuyên nghiệp hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành sản xuất của mình.

Tất nhiên để xây dựng các hợp tác xã như thế nhà nước cần có quỹ hỗ trợ và phải có các chương trình gắn việc đưa công nghệ sản xuất mới với việc xây dựng các hợp tác xã chuyên ngành.

Như thế ngành cà phê có thể khắc phục được những yếu kém của từng hộ nông dân, liên kết tổ chức nông dân lại để tham gia thị trường nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất cà phê ở Việt Nam.

III. Quan hệ với các nước trong khu vực

Trong 10 nước thuộc Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Việt Nam là nước đứng đầu vế sản lượng cà phê. Kế đó có Indonesia  là nước sản xuất cà phê được thế giới biết đến nhiều và đánh giá cao.

Trong các nước ASEAN có quy định về sự hợp tác với một số mặt hàng quan trọng trong đó có cà phê. Hàng năm người ta tổ chức các cuộc họp National Focal Point Working Group on Coffee và Việt Nam được cử làm Lead Country. Qua các cuộc họp NFP WG các nước thoả thuận về việc chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp với nhau trong sản xuất, xuất khẩu. Ở đây ngành cà phê Việt Nam cũng đã cố gắng đóng góp vào sự phát triển chung của ngành cà phê khu vực. Tổ chức này đã tiến hành 4 Hội nghị vào các năm 1998, 2000, 2003 và 2004 tại Việt Nam. Hiện nay người ta đang chuẩn bị cho Hội nghị này tiến hành vào cuối tháng 11/2005 tại Indonesia.

Ngoài ra Việt Nam cũng đã có thoả thuận với Indonesia trong một chương trình hợp tác về cà phê ký giữa Bộ trưởng Bộ Thương Mại hai nước. Hai bên sẽ đi đến thành lập một Uỷ ban phối hợp để nghiên cứu việc điều hành sản xuất cà phê…

Ngành cà phê Việt Nam rất coi trọng việc đi tham quan học tập ở các nước sản xuất cà phê trong khu vực và thế giới như Indonesia, India, Ivory Cost, Kenya, Peru, Colombia và Brazil. Chúng tôi cố gắng qua tham quan học tập để tiếp thu được những bài học kinh nghiệm từ các nước, bổ sung cho những điểm còn  yếu kém của mình để tiến bộ nhiều hơn.

Hội nhập quốc tế, đóng góp sức mình vào cộng đồng cà phê thế giới là một trong những yêu cầu của ngành cà phê Việt Nam để xây dựng một ngành cà phê phát triển bền vững.

Ông. Đoàn Triệu Nhạn nguyên chủ tịch Vicofa

Bình luận

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Tin đã đăng