Nhờ những bước đi vững chắc, cây cà phê chè đang ngày càng khẳng định là cây trồng có vị thế số một của nhiều địa phương tỉnh Sơn La. Thực tế này cho thấy, phát triển một loại cây trồng nào, việc quy hoạch và vạch ra chiến lược phát triển rõ ràng có vai trò quyết định cơ bản tới thắng hay bại.
Đi tù vì… cây cà phê chè
Ông Phạm Văn Khánh, người có thâm niên 24 năm đảm nhiệm chức vụ chủ tịch UBND xã Chiềng Ban – nơi tập trung vựa cà phê lớn nhất tỉnh Sơn La ví von rằng, câu chuyện về cây cà phê chè ở Chiềng Ban chẳng khác gì một tiểu thuyết với nhiều thăng trầm đau đớn, nhưng kết thúc cũng rất có hậu. Nhìn vào những cơ ngơi hoành tráng mà cây cà phê chè tạo ra ở Chiềng Ban bây giờ, ít ai ngờ rằng đã có một thời, cây cà phê từng mang lại sự thất bại đắng cay cho người dân nơi đây. Sự thất bại, theo cách nói của ông Khánh thì đó là kết quả của sự vội vàng, thiếu định hướng quy hoạch và ấu trĩ về tư duy SX.
Khoảng những năm 1997 – 1998, tỉnh Sơn La từng đưa ra một kế hoạch hoành tráng khi giao cho một DN nông nghiệp nhà nước là Cty chè – cà phê – cây ăn quả Sơn La nhiệm vụ mở rộng ồ ạt cây cà phê chè tại huyện Mai Sơn. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng nghìn hecta cà phê chè đã được mở rộng ồ ạt tại các địa phương của huyện Mai Sơn không theo một quy hoạch nào.
Nông dân miền núi, vốn chỉ quen trồng ngô, trồng sắn bỗng nhiên lại phải trồng một loại cây trồng khó tính mà họ vốn chẳng biết gì về kỹ thuật. Kèm theo đó, cơ chế DN cung cấp toàn bộ giống, phân bón, vật tư để nông dân SX, sau đó thu mua lại sản phẩm, nông dân gần như chẳng có trách nhiệm gì với cây cà phê.
Ông Hoàng Văn Chất (bản Củ II, xã Chiềng Ban) nhớ lại: Cà phê lúc đó như “cha chung không ai khóc”. Phân bón nhận từ Cty về, hộ nào thích thì vãi bừa ra vườn cà phê, ai không thích bón thì bán đi lấy tiền uống rượu. Cà phê trồng ra chẳng ai thèm chăm sóc, cỏ mọc um tùm, cũng chẳng ai biết tỉa chồi, cắt ngọn hay phòng trừ sâu bệnh thế nào nên hầu hết bị còi cọc, năng suất cao lắm chỉ 4 – 5 tấn quả tươi/hecta, chở lên tận Cty bán chỉ được 800 – 1.000 đ/kg. Hồi đó, gia đình ông Chất được vận động nên liều vay ngân hàng gần 50 triệu đồng trồng hơn 14 hecta cà phê.
Nhưng câu chuyện sau đó đúng là cười ra nước mắt. Mùa đông năm 1999, một đợt sương muối dày đặc kéo dài đã gần như xóa sạch toàn bộ diện tích cà phê ở Chiềng Ban cũng như các địa phương khác của Sơn La. Hơn 14 hecta cà phê chè 2 năm tuổi của ông Chất bị sương muối làm cháy trụi, số nợ lãi chồng lên tới hàng trăm triệu đồng. Sau mấy năm, số nợ đã bị đội lên gần cả tỷ đồng. Ông Chất trở thành con nợ lớn nhất ở xã Chiềng Ban.
Năm 2003, ông Chất đã phải ra tòa, chịu mức án 5 năm tù giam về tội lừa đảo, làm thất thoát tiền của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng. Đợt sương muối năm 1999, không chỉ xóa sổ hoàn toàn diện tích cà phê ở Sơn La, mà còn khiến bao người trồng cà phê ở Mai Sơn đau điếng vì nợ nần. Nhưng đó cũng là bài học lớn cho sự phát triển vội vàng, giúp nông dân và cả ngành nông nghiệp ở Sơn La tỉnh ngộ.
Đã có quy hoạch chi tiết
Sau đợt sương muối năm 1999, nhiều đơn vị khoa học, trong đó đặc biệt có Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã cử nhiều cán bộ trực tiếp lên Sơn La nghiên cứu kỹ về bản đồ sương muối cũng như lập lại điều tra về điều kiện thổ nhưỡng cho cây cà phê chè tại Sơn La. Qua đó, những khuyến cáo về quy hoạch phát triển theo từng tiểu vùng khí hậu phù hợp cho cây cà phê chè đã được đưa ra một cách căn cơ.
Hàng trăm lớp bồi dưỡng về kiến thức, kỹ thuật canh tác cà phê cũng đã được tỉnh Sơn La chú trọng bồi dưỡng cho nông dân tại các vùng có điều kiện phát triển cây cà phê theo định hướng. Từ năm 2005, cùng với sự khởi sắc của giá cà phê, cây cà phê chè đã dần hồi sinh và mở rộng trở lại. Dẫn chúng tôi tham quan đồi cà phê mêng mông với hơn 7 hecta, ông Cầm Văn Dua (bản Áng, xã Chiềng Ban) hồ hởi cho biết: Nhờ được tham gia tập huấn kỹ thuật bài bản nên cách trồng và chăm sóc cà phê bây giờ khác xưa một trời một vực. Từ phương pháp bón phân, tỉa cành, phòng sâu bệnh… chúng tôi đều đã được trang bị đầy đủ nhờ các chương trình tập huấn.
Từ khoảng năm 2005 trở lại đây, khi được biết điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở Chiềng Ban rất thích hợp cho cây cà phê chè, chúng tôi đã mở rộng diện tích theo từng bước chắc ăn, chứ không trồng mù mờ như trước. Với năng suất cà phê trung bình 10 tấn quả tươi/ha, năm nay, mặc dù giá cà phê có giảm đôi chút, nhưng chỉ cần với giá cà phê tươi trên 7 nghìn đồng/kg, thì nông dân đã thu lãi gấp nhiều lần trồng ngô, trồng sắn như trước đây.
Từ một xã nghèo, đến nay với khoảng hơn 1.000 hecta cây cà phê chè, Chiềng Ban đã trở thành một xã có thu nhập bình quân cao nhất nhì tỉnh Sơn La. Năm 2011, thu nhập từ cà phê của xã đã lên tới 130 tỉ đồng. Hộ gia đình ông Hoàng Văn Chất, từng phải đi tù vì cà phê, đến nay sau khi ra tù, nhờ bám trụ vững chắc với cây cà phê chè mà đã trở thành hộ giàu nhất nhì xã Chiềng Ban, với ngôi nhà 3 tầng khang trang.
Phân tích về những thành công từ thăng trầm của cây cà phê chè ở Mai Sơn, ông Trần Xuân Quang, Trưởng phòng NN-PTNT huyện Mai Sơn cho rằng, yếu tố quan trọng hàng đầu đó vẫn là định hướng quy hoạch và kỹ thuật. Bởi cà phê chè là cây trồng khó tính, không phải chỗ nào cũng trồng được.
Rút kinh nghiệm từ bài học trước đây, đến nay, cùng với quy hoạch chung của toàn tỉnh, huyện Mai Sơn đã có quy hoạch chi tiết cho việc phát triển cây cà phê chè cho từng giai đoạn ngắn và tới năm 2020. Theo đó, căn cứ vào điều kiện của từng tiểu vùng khí hậu và đất đai đã được khảo sát điều tra kỹ, huyện Mai Sơn ra quy hoạch tới năm 2020, diện tích cà phê đạt khoảng 3.000 hecta, tại 8 xã trong huyện như Chiềng Ban, Chiềng Mung, Chiềng Chung… Những vùng có điều kiện đất đỏ Feralit có độ dày trên 50cm, không có ngập úng, không thường xuyên có sương muối thì mới quy hoạch. Việc phát triển phải đảm bảo liền vùng, được bố trí giao thông tiện cho thu mua và chế biến và tránh chồng lấn với cây trồng khác như ngô, mía…
Năm 2011, UBND tỉnh Sơn La cũng đã phê duyệt quy hoạch chi tiết cho cây cà phê trên địa bàn tỉnh. Theo đó đến năm 2020, nâng tổng diện tích cà phê toàn tỉnh lên khoảng 10.000 ha. Trong đó, diện tích cà phê hiện có được đưa vào quy hoạch 5.003 ha, và trồng mới 4.997 ha. Trước mắt giai đoạn 2011 – 2015 sẽ trồng mới 997 ha, tập trung ở huyện Mai Sơn, TP Sơn La, huyện Thuận Châu và mở rộng một phần chắc ăn tại huyện Sốp Cộp. Tỉnh này cũng đã có hàng loạt các chính sách và dự án cụ thể về giao thông, giống, tiêu thụ, vốn vay… với tổng số vốn giai đoạn 2011 – 2020 là hơn 2 nghìn tỉ đồng nhằm thúc đẩy cây cà phê theo định hướng quy hoạch.
Kỹ sư Nguyễn Quang Trung – Bộ môn nghiên cứu cà phê (Trung tâm Nghiên cứu và phát triển nông nghiệp Tây Bắc): “Nhiều địa phương ở Sơn La, đặc biệt là huyện Mai Sơn có điều kiện tự nhiên tuyệt vời để trồng cà phê chè như: độ cao trên 500m so với mực nước biển, nhiệt độ chênh lệch ngày – đêm trên 5 độ C, đất đỏ Feralit có độ dày trên 50cm, có một mùa đông khô kéo dài (cà phê chè không cần tưới nước như cà phê vối Tây Nguyên)… Từ khi hồ Thủy điện Sơn La hình thành, hiện tượng sương muối cũng giảm rõ rệt nên rất thuận lợi để trồng cà phê. Tuy nhiên, đặc điểm khí hậu theo từng tiểu vùng ở Sơn La cũng rất rõ rệt, nên quy hoạch cho cây cà phê chè cần phải cẩn trọng và kỹ càng, tránh sương muối”.
Anh Kỹ sư này nói là huyện Mai Sơn có điều kiện tự nhiên đặc biệt đến mức tuyệt vời để trồng cà Arabica.
Nêu lên cụ thể thì tôi thấy cũng bình thường thôi.
Bài báo này đang nói đến công lao của các cơ quan ban ngành trong việc quy hoạch phát triển cây cà phê chè ở Sơn La đây mà
Không biết thế nào để có một hạt cà phê arabica ngon nữa. Bà con nào có thể đưa thêm thông tin cho tôi được không?
Nếu bà con nào không sống ở Chiềng Ban hay chưa đặt chân đến thì đừng nói thiếu suy nghĩ nhé. Quả thực nếu xã nông nghiệp nào ở VN làm cũng làm được điều tương tự thì cuộc sống nông dân đã khác nhiều rồi.