Bệnh khô cành, khô quả, thường gặp với cây cà phê. Bệnh gây tác hại lớn tới năng suất và hiệu quả khai thác. Có thể phòng trừ bệnh bằng các ứng dụng công nghệ sinh học.
Tác hại
Đây là bệnh quan trọng thứ hai sau bệnh gỉ sắt trên cây cà phê. Bệnh làm khô quả, khô cành và chết cây. Bệnh được phát hiện ở Ấn độ năm 1919 và gây hại ở đây vào năm 1928, gây dịch Kenya (1960) làm giảm 50% sản lượng.
Tại Việt Nam, bệnh được phát hiện năm 1930 và cho đến nay cùng với việc gia tăng diện tích cà phê chè tại các tỉnh Tây Nguyên tỷ lệ cây bệnh và mức độ gây bệnh cũng gia tăng.
Các kết quả điều tra của bộ môn Bảo vệ thực vật, Viện nghiên cứu cà phê tại Đắk Lắk cho thấy tỷ lệ quả bệnh trên cây từ 4,6-20,4%, tỷ lệ quả bệnh rụng dưới đất là 6%, không kể tỷ lệ quả rụng do sinh lý là 26%, tỷ lệ cây bệnh nặng là 12%. Bệnh làm giảm 7% sản lượng qua việc làm giảm 22,8% trọng lượng 100 nhân.
Tác nhân gây bệnh
Bệnh khô cành khô quả do nhiều nguyên nhân:
– Do nấm: Colletotrichum cofeanum Noack trên quả gọi là bệnh Coffee Berry Disease (CBD),
– Do vi khuẩn: Pseudomonas syringea, P. garcae,
– Do sinh lý: làm khô cành khô quả gọi là bệnh Die-back
Mc Donald (1926) đã phân biệt được 3 loại C. cofeanum: hoại sinh, ký sinh nhẹ nhưng không xâm nhiễm và ký sinh mạnh gây nên CBD.
Bào tử nấm C. cofeanum chỉ nảy mầm khi có giọt nước. Trong nước, bào tử nảy mầm ở nhiệt độ dưới 20ºC nhưng trong môi trường dinh dưỡng, nhiệt độ để bào tử nảy mầm từ 10-35ºC, ở nhiệt độ tối ưu, bào tử nảy mầm chỉ sau 4 giờ. Thời gian tiềm dục của nấm C. cofeanum ở ngoài đồng từ 2-4 tuần. Mưa vào buổi chiều tối làm phát tán bào tử và làm bào tử nảy mầm xâm nhiễm vào quả.
Các kết quả phân tích và lây nhiễm của bộ môn Bảo vệ thực vật, Viện nghiên cứu cà phê cho thấy tại Tây Nguyên hiện có sự hiện diện của hai nguyên nhân: sinh lý và nấm bệnh Colletotrichum spp. trong đó loài C. cofeanum chiếm đa số trong các mẫu phân lập được từ cà phê chè Catimor tại các tỉnh Tây Nguyên:
– Trên quả: Colletotrichum coffeanum, C. gloeosporioides
– Trên cành lá: C. gloeosporioides, C. capsici
Triệu chứng
Bệnh xuất hiện trên cả 3 bộ phận: quả, cành và lá nhưng gây hại nặng trên quả. Tài liệu cho thấy bệnh xuất hiện trên cả hoa nhưng tại Đắk Lắk chưa thấy triệu chứng trên hoa.
– Trên quả: bắt đầu bằng vết chấm nhỏ màu nâu trên vỏ quả sau lan rộng ra và có màu nâu sẫm, ở phần bệnh lõm sâu xuống. Đây là triệu chứng đặc trưng của bệnh trên quả do Colletotrichum gây ra. Vết bệnh lan dần khắp vỏ quả, ăn sâu vào trong nhân làm quả đen và rụng. Bệnh cũng bắt đầu từ vị trí đính vào cuống hay tại điểm tiếp xúc giữa hai quả, những nơi mà nước có thể đọng lại.
– Trên cành: Bệnh xuất hiện đầu tiên từ những đốt ở giữa cành. Đầu tiên là những vết nhỏ màu nâu vàng sau đó nâu sẫm, Vết bệnh lan rộng khắp chiều dài của đốt và lõm xuống so với vùng kế bên. Lá trên cành rụng dần, cành khô dần rồi chết, ở cây bệnh nặng bệnh tấn công cả cành lớn và thân.
– Trên lá: lá bệnh có nhiều đốm nâu, sau đó lan rộng ra, chuyển sang màu nâu sẫm hay nâu đen.
Sự phát sinh phát triển
Bệnh xuất hiện ngay từ giai đoạn ra hoa và gây hại nặng nhất nếu mùa bệnh trùng với giai đoạn non của quả do đó tưới nước sớm để cây ra hoa sớm tránh giai đoạn quả non trùng vào lúc bệnh phát triển là biện pháp để phòng trừ bệnh khô quả.
Tại Đắk Lắk , bệnh phát triển từ tháng 5, tăng nhanh từ tháng 6, đạt đỉnh cao ở tháng 10. Trên cành, bệnh phát sinh muộn hơn, tăng nhanh từ tháng 8 đến tháng 10 thì chậm lại.
Hiện tượng khô cành khô quả thường xuất hiện nhiều ở các vườn có năng suất cao (trên 4 tấn nhân/ha), lượng phân bón thấp.
Các biện pháp phòng trừ
Chương trình chọn giống cà phê chống bệnh CBD được bắt đầu thực hiện trên cà phê chè tai Kenya từ năm 1936 và cho đến nay rất nhiều giống chống bệnh CBD đã được phổ biến như K7, Blue Mountain, Rume Sudan.
Bón phân cân đối cũng có thể hạn chế được bệnh khô cành.
Tại Kenya, người ta phun thuốc mỗi tháng một lần trong mùa mưa. Thuốc gốc đồng cho thấy có hiệu quả cao, bên cạnh đó còn có Captafol, các thuốc nội hấp cũng cho hiệu quả cao, tuy nhiên nấm C. cofeanum lại nhanh chóng kháng các loại thuốc này.
Tại Đắk Lắk, các thí nghiệm cho thấy dùng Derosal 50 (0,2%), Tilt 250 EC (0,1%), Viben C 50 BTN (0,2%)… phun từ đầu mùa mưa (tháng 5, 6), 2-3 lần cách nhau 1 tháng có thể sử dụng để phòng trừ bệnh này.
Có thể sử dụng nấm đối kháng Trichoderma là biện pháp sinh học để phòng trừ bệnh này. Cơ chế phòng trừ nấm bệnh của nấm đối kháng Trichoderma là tại những điểm tiếp xúc trực tiếp của Trichoderma với nấm bệnh sẽ làm cho nấm gây bệnh teo đi và chết, đây là hiên tượng ký sinh của nấm Trichoderma. Ngoài ra nấm Trichoderma còn có tính kháng sinh nên dù không tiếp xúc trực tiếp nấm bệnh vẫn chết. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển của Trichoderma là từ 25-30ºC.
xin chao, co bac nao biet che pham sinh hoc trichoderma duoc ban o dau? cach dung de tri nam gay benh kho canh kho qua ra sao? rat mong duoc chi giao. cam on
[Mong bạn vui lòng sử dụng tiếng Việt có dấu. Xin cám ơn. BQT.]